Vào ngày 15 tháng 11, Cục Lâm nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp cùng Trường Đại học Lâm nghiệp tổ chức một hội thảo về việc ứng dụng công nghệ cao trong quản lý sản xuất lâm nghiệp bền vững. Đây là một trong những hoạt động nhằm kỷ niệm 60 năm thành lập Trường Đại học Lâm nghiệp.
Công nghệ cao: Động lực cho sự phát triển của ngành lâm nghiệp
Tại hội thảo, ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, đã trình bày về những đặc điểm nổi bật của hoạt động sản xuất trong ngành lâm nghiệp hiện nay cũng như xu hướng áp dụng công nghệ cao vào quản lý sản xuất.
Theo ông Bảo, ngành lâm nghiệp Việt Nam đang quản lý khoảng 14,8 triệu hecta rừng, trong đó có hơn 10 triệu hecta là rừng tự nhiên và phần còn lại là rừng trồng. Nếu phân chia theo ba loại rừng, sẽ có khoảng 2,2 triệu hecta là rừng đặc dụng (bao gồm các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên), khoảng 4,6 triệu hecta rừng phòng hộ và khoảng 7,8 triệu hecta là rừng sản xuất (gồm cả rừng tự nhiên và rừng trồng).
Ngành lâm nghiệp không chỉ là một lĩnh vực kinh tế mà còn mang tính kỹ thuật, sản xuất theo chuỗi từ khâu giống, trồng rừng, quản lý, bảo vệ, khai thác cho đến chế biến và xuất khẩu lâm sản. Hơn nữa, gần 20 triệu người dân Việt Nam sinh sống trong và xung quanh rừng, điều này càng làm tăng tính đặc thù của ngành.
Ông Cục trưởng nhấn mạnh rằng việc ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực lâm nghiệp ngày càng trở nên quan trọng, góp phần tích cực vào sự phát triển của ngành. Điều này thể hiện rõ nhất qua công tác giống, giúp nâng cao năng suất và chất lượng giống cây trồng. Hiện tại, mỗi năm, ngành lâm nghiệp thực hiện tái canh khoảng 260.000 hecta rừng.Hiện nay, diện tích đất để mở rộng sản xuất rừng đã không còn nhiều. Để nâng cao sản lượng khai thác và cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến gỗ xuất khẩu, chúng ta cần tập trung vào việc cải thiện năng suất rừng trồng, đặc biệt là trồng các loại cây gỗ lớn và những cây có giá trị kinh tế cao. Ông Bảo nhấn mạnh rằng một trong những yếu tố then chốt chính là ứng dụng công nghệ sinh học để cải tiến giống cây rừng.
Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong việc nâng cao năng suất của các giống cây trồng phục vụ cho việc trồng rừng, đặc biệt là hướng đến việc phát triển rừng gỗ lớn. Tuy nhiên, hiện tại, năng suất bình quân của rừng trồng trên toàn quốc chỉ đạt khoảng 15-18 m3/hecta/năm, con số này vẫn còn thấp so với năng suất thử nghiệm đạt khoảng 30 m3/hecta/năm. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu và chọn lọc các loài cây phù hợp với nhiều điều kiện khác nhau cũng như có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu để nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng.
Theo ông Trần Quang Bảo, với hơn 14,8 triệu hecta rừng trải dài khắp cả nước, việc theo dõi, quản lý và giám sát tài nguyên rừng đòi hỏi phải áp dụng công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ GIS và viễn thám để cập nhật và truy xuất hình ảnh vệ tinh. Điều này sẽ giúp theo dõi và giám sát rừng một cách tự động và thường xuyên, giảm bớt công sức và nhu cầu tuần tra trên mặt đất. Trong bối cảnh mới, việc tính toán diện tích rừng liên quan đến khả năng hấp thụ CO2 nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cũng là một lĩnh vực ưu tiên cần được chú trọng ứng dụng công nghệ cao.Ngoài ra, công nghệ trong lĩnh vực chế biến đồ gỗ xuất khẩu cũng đang phát triển mạnh mẽ. Ông Trần Quang Bảo cho biết, ngành lâm nghiệp Việt Nam hiện đứng thứ hai thế giới về tổng giá trị xuất khẩu đồ gỗ, với mức trung bình đạt khoảng 16 tỷ USD mỗi năm. Nếu tính cả thị trường nội địa, Việt Nam xếp thứ năm, chỉ sau Trung Quốc, Đức, Ba Lan và Ý. Đáng chú ý, 80% nguyên liệu gỗ dùng trong chế biến đến từ rừng trồng trong nước. Tuy nhiên, gỗ trồng tại Việt Nam chủ yếu là các loại gỗ nhỏ, do đó cần áp dụng công nghệ chế biến tiên tiến như biến tính gỗ, uốn và xẻ để nâng cao giá trị sản phẩm và gia tăng khả năng xuất khẩu.
Động lực thúc đẩy ngành lâm nghiệp trong bối cảnh mới
Nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ông Cao Đức Phát, đã chia sẻ rằng hiện nay, thế giới đang rất lo ngại về tình trạng diện tích rừng ngày càng suy giảm, với độ che phủ rừng toàn cầu chỉ khoảng 20%. Khi dân số gia tăng nhanh chóng, nhu cầu về lương thực và thực phẩm cũng tăng theo, điều này đặt ra bài toán làm sao để tăng sản lượng mà không phải phá hủy rừng, một vấn đề khiến nhiều quốc gia đau đầu.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, độ che phủ rừng đã liên tục tăng từ năm 1990 đến nay, hiện đạt 42%. Sản lượng lương thực và thực phẩm cũng đã tăng lên qua từng năm, đủ đáp ứng nhu cầu của người dân. Đây là điều mà ngành lâm nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể tự hào về thành quả của mình.
Ông nhấn mạnh rằng ngành lâm nghiệp nước ta đã trở thành một lĩnh vực kinh tế có giá trị gia tăng cao, mang lại thu nhập cho những người trồng rừng cũng như cho những ai tham gia vào các hoạt động chế biến và kinh doanh lâm sản.Nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ ra rằng, để có được những thành tựu ấn tượng trong ngành lâm nghiệp với khoảng 20 triệu người tham gia (gần 20 triệu đồng bào Việt Nam sinh sống trong và xung quanh rừng), chúng ta không thể chỉ hướng dẫn từng cá nhân mà phải áp dụng các biện pháp, động lực phù hợp để điều chỉnh.
Trong những năm 80 và 90 của thế kỷ XX, nguồn động lực chủ yếu đến từ sự hỗ trợ và can thiệp của Nhà nước thông qua việc chỉ đạo, đầu tư vốn cho bảo vệ và trồng rừng. Ngày nay, động lực chính lại xuất phát từ thị trường, kết hợp với sự hỗ trợ của khoa học công nghệ. Đặc biệt trong lĩnh vực chế biến lâm sản, các doanh nghiệp đang rất năng động và áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật mới.
Hiện tại, chúng ta không còn đất để mở rộng diện tích rừng, vì vậy con đường duy nhất là nâng cao năng suất và giá trị gia tăng. Chúng ta đã tập trung vào việc này thông qua chế biến và vẫn còn nhiều cơ hội khai thác giá trị từ gỗ, lâm sản cũng như môi trường rừng, đặc biệt là việc gia tăng giá trị. Theo Nguyên Bộ trưởng Cao Đức Phát, ngành lâm nghiệp nên theo đuổi hướng đi này.
Ông cũng nhấn mạnh rằng Hội thảo về Ứng dụng công nghệ cao trong quản lý sản xuất lâm nghiệp bền vững đang đi đúng hướng. Trong bối cảnh hiện đại, ngành lâm sinh cần chú trọng đến công nghệ gen và công nghệ viễn thám; trong quản lý, chế biến và thương mại thì cần ứng dụng công nghệ số. Ông hy vọng Trường Đại học Lâm nghiệp sẽ trở thành đơn vị tiên phong trong việc nắm bắt, ứng dụng và phổ biến công nghệ chỉnh sửa gen.
PGS.TS Phùng Văn Khoa, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lâm nghiệp, cũng khẳng định rằng Hội thảo này là một sự kiện quan trọng đối với ngành lâm nghiệp, đặc biệt có ý nghĩa trong dịp kỷ niệm Ngày Lâm nghiệp Việt Nam 28.11 và 60 năm thành lập Trường Đại học Lâm nghiệp.60 năm là một cột mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển vượt bậc của Trường Đại học Lâm nghiệp, thể hiện quá trình nỗ lực không ngừng trong lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học nhằm phục vụ cho sự phát triển của ngành lâm nghiệp Việt Nam. Qua 6 thập kỷ, nhà trường đã khẳng định vị thế của mình không chỉ là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao mà còn là trung tâm nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ có ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực này, theo chia sẻ của PGS.TS Phùng Văn Khoa.
Ông cho biết, Hội thảo được tổ chức với mục đích trao đổi và thảo luận về những giải pháp công nghệ tiên tiến, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sản xuất lâm nghiệp bền vững, từ đó tạo ra giá trị kinh tế cao. Đồng thời, hội thảo cũng hướng tới việc bảo tồn các giá trị sinh thái và môi trường, góp phần vào chiến lược phát triển của ngành lâm nghiệp và đất nước.
Trong bối cảnh hiện tại, PGS.TS Phùng Văn Khoa nhấn mạnh rằng, trước những thách thức do biến đổi khí hậu và nhu cầu phát triển bền vững, việc ứng dụng công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo, viễn thám và công nghệ địa tin học đang mở ra những cơ hội mới cho ngành lâm nghiệp. Những tiến bộ này giúp chúng ta giám sát tài nguyên rừng một cách chính xác, quản lý và khai thác hợp lý, đồng thời đảm bảo bảo tồn đa dạng sinh học và nâng cao hiệu quả trong việc phục hồi và mở rộng diện tích rừng tự nhiên. Hơn nữa, nó còn giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất, đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.
Nhiều ý tưởng sáng tạo và giải pháp thực tiễn
Với tinh thần hợp tác và chia sẻ, Hội thảo Ứng dụng công nghệ cao trong quản lý sản xuất lâm nghiệp bền vững đã thu hút sự tham gia của nhiều chuyên gia hàng đầu, nhà khoa học, nhà quản lý và đại biểu từ các lĩnh vực khác nhau, mang lại nhiều ý tưởng sáng tạo cùng các giải pháp thiết thực.PGS.TS Lý Tuấn Trường, đến từ Viện Công nghiệp gỗ và Nội thất thuộc Trường Đại học Lâm nghiệp, nhấn mạnh rằng để thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực chế biến gỗ và lâm sản tại Việt Nam, cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nhằm giúp các doanh nghiệp vượt qua những khó khăn về chi phí, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng.
Các giải pháp cụ thể bao gồm: hỗ trợ tài chính và chính sách từ phía Nhà nước, đào tạo và phát triển đội ngũ nhân lực có chuyên môn cao, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng sản xuất, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số và xây dựng hệ thống quản lý thông minh, tăng cường hợp tác quốc tế và trao đổi công nghệ, cũng như nâng cao nhận thức và khuyến khích đổi mới công nghệ.
Theo đại diện của Cục Lâm nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong thời gian tới, các giải pháp chuyển đổi số cho ngành lâm nghiệp sẽ tập trung vào việc đầu tư vào hạ tầng công nghệ và kỹ thuật số. Điều này bao gồm việc xây dựng một hệ thống thiết bị công nghệ thông tin hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu thiết lập và phát triển cơ sở dữ liệu tập trung về lâm nghiệp. Hệ thống cơ sở dữ liệu toàn diện sẽ được xây dựng để lưu trữ, kết nối và chia sẻ thông tin trên toàn quốc.
Ngoài ra, cần phát triển các ứng dụng và dịch vụ thông minh trong việc quản lý và giám sát tài nguyên rừng, bảo tồn đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng và các lĩnh vực đặc thù khác. Tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ và tổ chức quốc tế để huy động nguồn lực và kinh nghiệm cho quá trình chuyển đổi số là điều cần thiết. Đồng thời, cần chú trọng đào tạo nhân lực có kỹ năng về công nghệ số và nâng cao nhận thức về chuyển đổi số cho cán bộ lâm nghiệp ở mọi cấp độ. Cuối cùng, việc thiết lập cơ chế pháp lý rõ ràng và thống nhất về quản lý dữ liệu và bảo mật thông tin sẽ đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong quá trình triển khai.Theo đánh giá của các chuyên gia, những ý tưởng sáng tạo và giải pháp thực tiễn được đưa ra tại Hội thảo sẽ là nguồn động lực quan trọng giúp ngành lâm nghiệp Việt Nam phát triển mạnh mẽ, tiến tới hiện đại hóa và bền vững. Điều này hoàn toàn xứng đáng với vị thế và vai trò của ngành trong công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.